Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới
- Hotline tại Hà Nội
093.4619.456
- Hotline tại TP.HCM
090.188.4848
- Hotline tại Quảng Ninh
0988980308
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Sơn La
1.2. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Sơn La
Ngày 27 tháng 7 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1270/TTg-QĐ phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” do Bộ Văn hóa đề xuất. Đề án này tập trung bảo tồn khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hoá của các dân tộc thiểu số rất ít người, tạo điều kiện phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số có số dân đông. Đây có thể được xem là cơ sở pháp lý và chỉ dẫn quan trọng cho Sơn La xây dựng chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Thái. Thực ra, cho đến nay, không phải lần đầu tiên Chính phủ ra nghị quyết như thế này. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện các nghị quyết này dường như đang đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm và đây có thể là một trong những nguyên nhân cốt lõi làm cho các nghị quyết của chính phủ về các dân tộc thiểu số ít đi vào được trong cuộc sống. Theo quan sát của chúng tôi, cách bảo tồn phát huy văn hóa thời gian qua chủ yếu tiếp cận từ hai hướng: (1) Tuyên truyền vận động thông qua hệ thống thông tin nhà nước; (2) Xây dựng các đề án bảo tồn và phát huy giá trị văn với nguồn kinh phí do nhà nước cấp nhằm đạt được mục đích nhất định. Cả hai cách làm này đều lấy kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước và tiếp cận theo hướng từ trên xuống, với sự can thiệp sâu của bộ máy quan liêu cồng kềnh, kém hiệu quả. Gần đây, đã xuất hiện xu hướng tiếp cận mới, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa có sự tham gia của người dân. Tuy nhiên, bản thân cái tên gọi như vậy dường như cũng đã làm nảy sinh vấn đề bởi văn hóa là của người dân, đương nhiên họ phải là chủ thể bảo tồn văn hóa của chính mình chứ sao lại chỉ là tham gia. Để làm tốt hơn quyết định của Chính phủ, chúng tôi đã nghiên cứu một số trường hợp các tổ chức phi chính phủ đạt được một vài thành công trong bảo tồn văn hóa bản địa của các dân tộc thiểu sô để có thể vận dụng vào trường hợp Sơn La. Quan điểm nhất quán của chúng tôi trong nghiên cứu này dựa trên giả thiết cho rằng quá trình phát triển thường làm nảy sinh các xung đột với bảo tồn văn hóa nhưng không thể đồng ý với quan điểm vì phát triển mà chấp nhận phai nhạt bản sắc văn hóa. Kinh nghiêm lịch sử của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy phát triển phải đi đôi với bảo tồn để giữ gìn bản sắc văn hóa, phải biến vốn văn hóa của mỗi dân tộc thành động lực của phát triển, và đó mới là cái gốc của phát triển bền vững. Vấn đề đặt ra đối với văn hóa dân tộc Thái ở Sơn La hiện nay cũng chính là nhằm giải quyết mâu thuẫn này.
Để tìm kiếm những ý tưởng tiếp cận mới đối với vấn đề văn hóa Thái ở Sơn La, chúng tôi đã nghiên cứu hai tổ chức tự nguyện làm việc trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy bẳn sắc văn hóa dân tộc. Đó là Trung tâm Vì Sự Phát triển Bền vững Miền núi và Nhóm làm việc về người dân tộc thiểu số (EMWG) thuộc các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam.
(Trung tâm Vì sự Phát triển Bền vững Miền núi (CSDM) thành lập từ năm 2000 theo Quyết định của Hội Địa chất Việt Nam, có trụ sở tại 4 Trần Quang Diệu, Hà Nội. Từ chỗ chỉ quan tâm đến vấn đề sinh kế của người dân miền núi, CSDM đã chuyển dần sang hỗ trợ những mạng lưới tự nguyện dân lập có chung mục đích phát triển xã hội hơn là các mạng lưới đơn thuần mang tính kinh tế. CSDM đã tổ chức và liên hàng loạt các tổ chức của người dân tộc thiểu số. Lần lượt từ 2005 đến 2007, Mạng lưới bảo vệ tri thức bản địa của các dân tộc Tày, Nùng và Thái đã được thành lập, tiếp theo là Mạng lưới “Liên kết tri thức bản địa ” của các lang y trong tỉnh Lạng Sơn và cuối cùng, Mạng lưới “Bảo tồn và phát triển tri thức bản địa dân tộc Thái Việt Nam” ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái. Một trong những hoạt động trọng tâm của mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa dân tộc Thái là nghiên cứu chữ viết Thái và biên soạn tài liệu phổ biến chữ viết Thái nhằm bảo tồn và phát huy vốn cổ dân tộc. Các thành viên tự nguyện của mạng lưới đã sưu tầm và lưu trữ các tác phẩm văn hóa dân gian cố của người Thái, đưa chữ Thái vào máy tính, làm từ điển, và nhân rộng mô hình tổ chức các lớp dạy chữ Thái ra các địa phương. Ngoài ra, mạng lưới còn sưu tầm và phổ biến các làm điệu dân ca dân vũ Thái cổ truyền trong cộng đồng. Nói về triết lý hoạt động của các mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa các dân tộc, một thành viên của mạng lưới này nói: “Thời gian qua, nhiều lễ hội cổ truyền (của các dân tộc thiểu số) đã được phục dựng. Nhiều ngôn ngữ của các dân tộc được chú ý gìn giữ. Nhưng, theo tôi, vấn đề cơ bản nhất là chiều sâu của văn hoá, chứ không phải chỉ ở một vài lễ hội, một vài điệu hát.... Trên thực tế, nếu gìn giữ, bảo tồn văn hoá các dân tộc một cách hình thức thì sẽ không đem lại hiệu quả. Nếu một dân tộc nào đó không giữ được nét văn hoá của dân tộc mình thì dân tộc đó sẽ bị lãng quên. Của cải, vật chất có thể làm ra được, nhưng văn hoá dân tộc không phải một sớm một chiều mà có. Nó bắt nguồn từ bề dày lịch sử, từ truyền thống của các dân tộc đó… Theo tôi, yếu tố quan trọng nhất chính là phải đáp ứng được nhu cầu thiết thân của đồng bào. Đồng bào ý thức được rằng giữ gìn văn hoá là việc làm cho bản thân họ, cho dân tộc họ, khi đó, họ thực hiện rất nhiệt tình. Bên cạnh đó, tính cố kết cộng đồng cũng góp phần to lớn trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá bản địa”)
Bên cạnh triết lý hoạt động bảo tồn và phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo và nguồn lực của xã hội dân sự thay vì tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoài của tổ chức CSDM, chúng tôi cũng nhận thấy phương thức đa dạng hóa văn hóa và nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng dân tộc thiểu số có ý nghĩa to lớn trong phát triển. Ông Bert Maerten, chủ tịch EMWG cho rằng: “Việt Nam đang đối mặt với những thách thức mới đòi hỏi phải có cách làm mới, có tính đột phá nhằm tháo gỡ những rào cản và những bất bình đẳng mà cộng đồng dân tộc thiểu số đang gặp phải. Những giải pháp phải tính đến sự đa dạng văn hóa cũng như tính chủ thể của người dân”.
Những người dân từ các nhóm thiểu số được mời tham dự vào hội thảo của tổ chức EMWG về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cũng nhấn mạnh sự đồng tình với cách tiếp cận như vậy: “Khi người dân có cơ hội học hỏi về văn hóa của mình, chia sẻ về văn hóa của mình, tính cộng đồng tăng lên và lòng tự hào văn hóa cũng tăng lên. Hơn nữa, người dân đã tự tin nói về văn hóa của mình với các bên và chủ động tham gia hơn vào các chương trình phát triển sinh kế và giữ gìn văn hóa cộng đồng. Như vậy, văn hóa là thuộc về cộng đồng và các chương trình bảo tồn văn hóa dân tộc nên lấy cộng đồng làm trung tâm, nếu không cộng đồng sẽ bị lề hóa và trở nên thụ động ngay trong những chương trình gìn giữ văn hóa của mình” . Cả hai trường hợp nói tới ở trên cho thấy không có sự khác biệt về quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số giữa đường lối và chính sách của nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự. Điều khác biệt căn bản chỉ là ở cách làm. Chúng tôi đồng ý rằng nhà nước có vai trò quan trọng, nhưng việc sử dụng nguồn ngân sách lớn của nhà nước qua hệ thống quan liêu thường chậm chạp và kém hiệu quả. Trong khi đó, các tổ chức xã hội dân sự của cộng đồng dường như nhanh nhạy và huy động được nguồn lực từ người dân để phát triển văn hóa của chính họ, do đó tránh được sự lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại vào nhà nước. Vấn đề là thái độ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc nhìn nhận, đánh giá và hỗ trợ các tổ chức này hoạt động vì cộng đồng thế nào. Chúng tôi tin rằng các tổ chức xã hội dân sự phi lợi nhuận là một nguồn lực vô cùng to lớn và hoạt động đầy sức sáng tạo. Nếu chúng ta sử dụng được nguồn lực này thì sẽ tạo ra được một sức mạnh và động lực lớn lao cho công cuộc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Thái trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay.
Cập nhập bởi http://vips.com.vn
Bài viết liên quan
- KẾT LUẬN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO VỆ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- Khả năng ứng dụng trong thực tế của đề án bảo tồn Văn hóa dân tộc Thái - (21/12/2017)
- Những khó khăn khi thực hiện đề án - (17/12/2017)
- HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TẾ - (17/12/2017)
- TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (16/12/2017)
- Nhóm các giải pháp về triển khai một số hoạt động nghiên cứu khoa học và các đề án, dự án bảo tồn văn hóa dân tộc - (14/12/2017)
- Nhóm giải pháp về nguồn lực cho Bảo tồn văn hóa dân tộc Thái - (11/12/2017)
- Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách cho bảo tồn VH dân tộc Thái - (10/12/2017)
- GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở SƠN LA - (04/12/2017)