Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới
- Hotline tại Hà Nội
093.4619.456
- Hotline tại TP.HCM
090.188.4848
- Hotline tại Quảng Ninh
0988980308
Tổng quan nghiên cứu về dạy học theo dự án
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về dạy học theo dự án
Thuật ngữ project có nguồn gốc latinh “Proicere” ngày nay được hiểu theo nghĩa là một dự án, đề án hay một kế hoạch, trong đó đề án hay kế hoạch này cần được thực hiện nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Trên thế giới, khái niệm Project từ lâu đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có giáo dục và đào tạo. Có nhiều giải thích khác nhau về nguồn gốc của dạy học project. Những nghiên cứu mới đây chứng tỏ rằng khái niệm Project được sử dụng đầu tiên trong các trường đào tạo nghề kiến trúc sư ở Ý cuối thế kỉ XVI. Tiến trình lịch sử lâu dài và đặc trưng của nó có thể chia thành năm giai đoạn:
- Giai đoạn đầu tiên (1590- 1765)
Trong các trường đào tạo nghề kiến trúc sư ở Ý. Quan điểm dự án học tập bắt đầu từ các cuộc thi mang tính thách thức và giải quyết một vấn đề tồn tại trong thực tiễn, cụ thể là đề thi yêu cầu HS phải thiết kế nhà thờ, tượng đài, cung điện sau đó HS phải phản biện được kết quả bài làm của mình. Đây thực ra là một bài tập lớn mà các nhà đào tạo mong muốn các sinh viên của mình sau khi ra trường không phải là một người thợ xây mà trở thành một người có tri thức về nghệ thuật, khoa học để họ thiết kế được những ngôi nhà đúng, đẹp, hữu ích. Sau đó mô hình đào tạo kiến trúc sư ở Ý được cải tiến và phát triển ở Pháp (1671). Sự phát triển các ý tưởng dự án, sự thừa nhận hiệu quả của hình thức dạy học này đã đưa đến một hệ quả: học tập theo dự án được công nhận là một phương pháp dạy học ở bậc giáo dục chuyên nghiệp.
Như vậy, do nhu cầu về đào tạo con người để trở thành một người có kĩ năng nghề nghiệp mà ý tưởng dạy học dự án ra đời.
- Giai đoạn 2 (1765- 1880)
Hình thức học tập theo dự án được thực hiện ở các khối trường kĩ thuật và công nghệ có liên quan đến nghệ thuật. Ví dụ : Ecole Centrale des Arts et Nhà sản xuất ở Paris (1829), Trường Đại học Bách khoa Ducal ở Karlsruhe (1833) , Liên bang Thụy Sĩ Viện Công nghệ Zurich (1854), Viện Công nghệ Massachusetts ở Boston, Mĩ (1864). Trong quá trình áp dụng DHTDA thì cơ sở lí luận về phương pháp này được nghiên cứu và hoàn thiện dần. Cụ thể, bắt đầu từ năm 1879, phương pháp dự án được thực hiện ở các trường đào tạo nghề mộc, cơ khí, công nghệ máy tính. HS được thực hành thường xuyên trong các phòng chuyên dụng với máy tiện, máy khoan, máy cắt, lò rèn, máy tính. Sau mỗi khóa học HS phải hoàn thành một dự án học tập được minh chứng bằng một sản phẩm cụ thể do mình tự làm ra và có thể sử dụng được. Tất cả sản phẩm của dự án là tài sản của trường.
Như vậy, DHTDA đã được lan truyền từ giáo dục đại học đến đào tạo nghề và kết thúc một dự án học tập không phải là một sản phẩm mang tính giả thuyết nữa (ví dụ, bản thiết kế nhà thờ, cung điện...) mà là một sản phẩm có thực và mang lại giá trị kinh tế nhất định. Hình thức đào tạo này đã gắn kết được lí thuyết với thực hành phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu xã hội.
- Giai đoạn 3 (1880- 1915)
DHTDA bắt đầu được chuyển xuống cấp học phổ thông, được thực hiện phổ biến trong quá trình đào tạo nghề ở trường THPT ở Mỹ (1897). Như nghề mộc, nghề hàn, nấu ăn và may. Bên cạnh đó DHTDA cũng được áp dụng vào môn khoa học tự nhiên thuộc phân môn Sinh học, đó là HS phải thực hiện dự án trồng đậu, cà rốt ở trang trại của cha, mẹ sau đó ghi chép lại hoạt động học tập thành một hồ sơ học tập rồi lưu lại ở phòng giáo dục Hoa Kì để làm tài liệu nghiên cứu về giáo dục. Thông qua những nỗ lực này, GV của các môn học khác đã trở nên quen thuộc với ý tưởng xây dựng và thực hiện một dự án học tập.
Trong giai đoạn này xuất hiện một cuộc cải cách về giáo dục, tiên phong là John Dewey ông đã nghiên cứu, thực nghiệm và đưa lên quan điểm giáo dục của mình, đó là: trong quá trình dạy học phải để cho người học được trải nghiệm cuộc sống thực tiễn và cách duy nhất để chuẩn bị cho đời sống xã hội là tham gia vào đời sống xã hội. Năm 1896 ông và cộng sự đã thành lập Trường thực nghiệm (Trường Dewey) tại Đại học Chicago. Tại đây đã cho ông nhiều cơ hội nghiên cứu và phát triển trào lưu tân- giáo dục. Ông phê phán lối dạy nhồi nhét, áp đặt trẻ em ghi nhớ thụ động, học vẹt đang diễn ra phổ biến ở Mỹ và trên thế giới. Ông nêu ra sự thất bại trong giáo dục để từ đó đưa ra phương pháp dạy học hướng tới năng lực và hứng thú của HS. Không những thế, ông cũng đề ra cách làm tích cực và cụ thể, cách làm đó đi từ một triết lí giáo dục hoặc lí luận dạy học. DHTDA đến thời điểm này được coi như là một trong những phương pháp dạy học tích cực và đã triển khai đến giáo dục phổ thông. Tuy nhiên cơ sở lí luận của nó còn đang ở mức sơ khai.
Giai đoạn 4: (1915- 1965)
Đây là giai đoạn mà phương pháp dạy học tích cực trong đó có DHTDA được nghiên cứu sâu sắc ở Mỹ và một số nước trên thế giới bởi một số nhà tâm lí học và giáo dục học (Lev Vygosky, Jerome – Bruner, jean Piaget, John Dewey, William H. Kilpatric…).
Nhà giáo dục John Dewey lần đầu tiên đưa ra quan điểm rõ ràng về dạy học dự án (năm 1916) trong cuốn “Dân chủ và giáo dục” [77] Ông cho rằng cần quan tâm tới xu hướng học tập hướng vào người học hay “lấy học sinh làm trung tâm”. Tác giả cũng chủ trương xây dựng một nền giáo dục gắn liền lí thuyết với thực hành, nhà trường không thể tách rời hoạt động thực tiễn và cá nhân sẽ xây dựng kiến thức thông qua tương tác với môi trường phù hợp. Ông khẳng định giáo dục là một sự cần thiết của cuộc sống (Education as a Necessity of Life)
Năm 1918, William H.Kilpatrick (1871- 1965) đã phát triển tư tưởng triết lí giáo dục của John Dewey, xây dựng các khái niệm và phổ biến rộng rãi phương pháp DHTDA qua một tác phẩm có tựa đề “Phương pháp dự án” [102]. Dựa trên cơ sở lí thuyết kinh nghiệm của Dewey, kết hợp với nghiên cứu về ảnh hưởng tâm lí HS đến quá trình học tập, tác giả cũng đưa ra quan điểm là phải tạo môi trường phù hợp để trẻ em phát triển năng lực bản thân trong phương pháp DHTDA. Ông kết luận rằng "tâm lý của đứa trẻ" là yếu tố quan trọng trong quá trình học tập. Trẻ em phải được tự do quyết định những gì các em sẽ thực hiện trong hoạt động học tập. Niềm tin, động lực và thành công trong học tập sẽ giúp các em theo đuổi ước mơ của mình. Hoạt động học tập phải mang tính tự chủ gắn liền với việc giải quyết những vấn đề thực tế trong các tình huống xã hội.
John Dewey và các nhà nghiên cứu của trường Đại học Côlômbia đã có đóng góp lớn để phổ biến phương pháp này qua các giờ học, các hội nghị và các tác phẩm nghiên cứu. Ông đã tham gia đặt nền móng về cơ sở lí luận cho DHTDA và phương pháp dự án này không chỉ dừng lại ở đào tạo nghề, hướng nghiệp, giáo dục con người ở các cấp học khác nhau mà còn nhấn mạnh đến sự hợp tác, tính liên môn, môi trường học tập không bắt buộc ở trong phạm vi lớp học, trường học để phát triển tính độc lập, sáng tạo, chủ động của con người ở mọi lứa tuổi. Trong đầu những năm 1920, cơ sở lí luận và thực tiễn về DHTDA của Kilpatrick đã thu hút sự chú ý. Ngày càng có nhiều GV bắt đầu xác định dự án rộng hơn và coi nó là một phương pháp dạy học có tính khả thi cao.
-Giai đoạn 5 (1965 – đến nay)
Nửa cuối của thế kỉ XX lí thuyết DHTDA xuất hiện chủ yếu trong các phiên bản mở rộng của Dewey và Kilpatrick, nhưng nó đã được lặp đi lặp lại và đôi khi có sự phủ định một số nội dung trong phương pháp này, tuy nhiên phương pháp này vẫn được coi là phương pháp dạy học tích cực và đã được thảo luận, ứng dụng ở nhiều nước như: Canada, Argentina, Anh, Đức, Ấn Độ và Úc. Các ấn phẩm của phương pháp dự án [93] được mô tả ở biểu đồ 1.1
Biểu đồ 1.1. Mối tương quan về số lượng ấn phẩm của phương pháp dự án
Sau năm 1965, phương pháp giảng dạy tích cực đã trở thành lựa chọn khả thi trong cuộc thảo luận về cải cách trường học ở Tây Âu. DHTDA nổi lên như là một phương pháp dạy học tích cực thay thế cho bài giảng truyền thống và là chủ đề nóng hổi trong các cuộc hội thảo. DHTDA được xem như là một hình thức học tập thông qua các cuộc điều tra và khảo sát, thực nghiệm để phù hợp với thực tế, tri thức khoa học và mang tính xã hội.
Từ những năm 1980, phần lớn sự chênh lệch rõ ràng giữa các chuẩn hướng dẫn dạy học với phương pháp dự án đã được giải quyết. Các nhà giáo dục đã có những nỗ lực đáng kể để hướng vào việc thiết lập sự hài hòa giữa phương pháp DHTDA với phương pháp dạy học khác nhằm đạt mục tiêu giáo dục. Vì vậy, DHTDA được nghiên cứu sâu sắc ở nhiều khía cạnh, do đó xuất hiện nhiều nghiên cứu để hoàn thiện phương pháp dạy học này trong bối cảnh mới, cụ thể là: Các hướng nghiên cứu tập trung vào động cơ học tập, các yếu tố ngoại cảnh và công nghệ tác động đến ý thức học tập của học sinh thông qua dạy học dự án. (Ames [59]; Blumenfeld [63, 64]; Barrows [61]; Boaler [65])
Những nghiên cứu đó đã chỉ ra rằng; hệ thống khen thưởng ảnh hưởng đến động cơ học tập, động cơ học tập được xây dựng theo kiểu tập trung vào phương pháp học và nắm vững kiến thức môn học có khuynh hướng giữ vững quan điểm, thành tích học tập hơn những HS mà động cơ học tập chỉ đơn thuần là hoàn thành khóa học. Học tập chú trọng đến mục tiêu thi cử có khuynh hướng làm giảm bản lĩnh học tập của người học và sự khích lệ người học tập trung vào việc học một cách tinh thông.
Ngoại cảnh (bối cảnh học tập cụ thể) ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của HS trong quá trình học theo dự án. Theo như nghiên cứu thì học tập sẽ được tối đa hóa khi môi trường học tập gần với môi trường sống hàng ngày và các “vật liệu” trong cuộc sống hàng ngày được sử dụng để dạy, ngược lại việc học sẽ bị giảm tối đa nếu như tình huống học tập xa lạ với bối cảnh cuộc sống hàng ngày của HS.
Theo Brown & Campione [66], trong quá trình dạy DHTDA sản phẩm của khoa học công nghệ được sử dụng như một công cụ truyền đạt nhận thức và tương tác xã hội, đặc biệt là việc ứng dụng phần mềm và các chương trình máy tính. Việc đưa công nghệ thông tin vào dạy học đã nâng cao năng lực học tập cho HS, bên cạnh lợi ích đó, công nghệ cũng có vai trò lớn trong việc kiến tạo tri thức giúp cho người học nhận thức được quá trình học tập của mình. Có những nghiên cứu để tìm ra sự ảnh hưởng của yếu tố giới tính đến DHTDA (Boaler [65]). Kết quả chỉ ra rằng HS nữ thích học theo phương pháp dự án và có thành tích học tập cao hơn HS nam ở môn Toán. Cũng ở nghiên cứu này tác giả khẳng định: DHTDA được cho là phương pháp dạy học hiệu quả trong việc thúc đẩy HS lười nhác, khó bảo, không hứng thú học, và do đó bị điểm thấp, trở nên có động lực và tham gia tích cực vào quá trình học.
Đầu thế kỉ XXI, khoa học công nghệ phát triển và đã đi vào tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống, giáo dục cũng được thừa hưởng những lợi ích mà nó đem lại. DHTDA cũng có những bước phát triển mới, nó được hỗ trợ bởi các công cụ, phần mềm khoa học công nghệ, làm phương tiện chuyển giao, kết nối thông tin, đáp ứng nhu cầu thu thập thông tin, xử lí số liệu, làm cho quá trình đóng gói và báo cáo sản phẩm học tập theo dự án trở nên nhanh hơn và sâu sắc hơn. Mô hình học tập thông qua dự án được sửa đổi là WebQuest được Bernie Dodge ở trường Đại học San Diego State University (Mỹ) xây dựng và phổ biến trong dạy học. Các đại diện tiếp theo là Tom March (Úc) và Heinz Moser (Thụy Sỹ) và Tom March thuộc đại học bang San Diego triển khai năm 1995. Một WebQuest là một hoạt động hướng đến yêu cầu mà trong đó một số hoặc tất cả các thông tin mà các HS tương tác đến từ các nguồn trên internet được bổ sung một cách có chọn lọc bởi hội thảo hình ảnh. WebQuest có thể ngắn hoặc dài, có thể kéo dài từ một số tiết học cho đến một tháng hoặc lâu hơn nữa, các WebQuest đều hướng HS đến việc giải quyết một hoặc một số tình huống đặt ra trong học tập.
Khi tổng kết về phương pháp DHTDA Knoll [93] đã nhận định: Có hai mô hình cơ bản của phương pháp dự án vẫn được sử dụng đến ngày nay đã được phát triển từ thế kỉ XIX đó là:
Mô hình 1:
• HS tìm hiểu nội dung chương trình học
• GV giảng dạy những tri thức cần thiết
• HS áp dụng tri thức, kĩ năng đã học vào thực hiện một dự án
Mô hình 2:
• GV bố cục lại nội dung các bài học để xây dựng một chủ đề hấp dẫn, thú vị, gần với cuộc sống thực tế, phù hợp với tâm lí lứa tuổi
• Quá trình giảng dạy không đi trước dự án mà được tích hợp vào quá trình cùng HS giải quyết vấn đề mà dự án đặt ra.
Như vậy, phương pháp DHTDA ban đầu chỉ là tập hợp các hoạt động để định hướng người học rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp được tổ chức bởi GV thực dạy. Trải qua nhiều thập kỉ ưu thế hoạt động học tập định hướng người học ngày càng được phát huy. Sau đó hoạt động nghiên cứu dần được hình thành và hoàn thiện về cơ sở lí luận. Nhờ có cơ sở lí luận mà phương pháp DHTDA được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng và được chứng minh là một trong những phương pháp dạy học tích cực. Ngày nay phương pháp DHTDA vừa được triển khai ở các cấp học, ngành học, vừa được nghiên cứu trong những bối cảnh cụ thể.
Bài viết liên quan
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG HỌC TẬP ( nghề cốm tại làng Vòng) - (03/10/2017)
- KẾ HOẠCH THỰC HIỆN DỰ ÁN (BẢO TỒN NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỐM LÀNG VÒNG) - (03/10/2017)
- PHIẾU HỎI Ý KIẾN CỦA HỌC SINH VỀ SỨC KHỎA BẢN THÂN ( phần 2) - (28/09/2017)
- PHIẾU HỎI Ý KIẾN CỦA HỌC SINH VỀ SỨC KHỎA BẢN THÂN - (28/09/2017)
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ POSTER - (28/09/2017)
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM LÊN MEN - (28/09/2017)
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG DỰ ÁN HỌC TẬP - (27/09/2017)
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ BÀI TRÌNH CHIẾU POWERPOINT - (27/09/2017)
- HỢP ĐỒNG HỌC TẬP - (27/09/2017)
- PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ THAM GIA LÀM VIỆC NHÓM - (27/09/2017)