Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới
- Hotline tại Hà Nội
093.4619.456
- Hotline tại TP.HCM
090.188.4848
- Hotline tại Quảng Ninh
0988980308
Xu hướng bảo lưu các yếu tố văn hóa truyền thống
1. Kết quả và những tiến bộ đạt được
1.1 Nhận diện những vấn đề văn hóa Thái ở Sơn La hiện nay
1.1.1. Xu hướng bảo lưu các yếu tố văn hóa truyền thống
Người Thái là nhóm dân tộc có dân số đông nhất của tỉnh Sơn La, với 482,958 người, chiếm hơn 54% dân số toàn tỉnh. Có thể nói văn hóa Thái chiếm một vị trí nối bật trong bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú của tỉnh Sơn La, trong khi các nhóm dân tộc đông người tiếp theo như Kinh chỉ chiếm 17% và Hmông 13% dân số. Tuy nhiên, bức tranh văn hóa Thái Sơn La cũng chịu nhiều tác động và xáo trộn đáng kể từ sau 2004 do dự án xây dựng đập thủy điện và sự thành lập thành phố Sơn La để hình thành một không gian văn hóa đô thị ở thủ phủ của người Thái Đen Tây Bắc. Như một lối sống cổ truyền, hầu hết các làng bản tập trung của người Thái đều được thiết lập ở vùng chân núi và thung lũng. Chương trình tái định cư di dời hơn 20 ngàn hộ, chủ yếu thuộc nhóm dân tộc Thái ở ba tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu ra khỏi khu vực định cư cố truyền của họ đến các địa bàn sinh sống khác trong tỉnh. Hơn 62.000 người Thái đã rời Mường La đến các vùng tái định cư ở huyện Quỳnh Nhai, Mường La, Thuận Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Sông Mã, Bắc Yên đã tạo ra một cảnh quan cư trú mới của người Thái Sơn La. Thêm vào đó, sự ra đời của thành phố Sơn La theo Nghị định số 98/2008/NĐ-CP đã biến 102.282 nhân khẩu, phần lớn là người Thái, từ những nông dân số trong các thôn bản thành thị dân. Đấy có thể xem là hai dự án phát triển tác động mạnh nhất làm thay đổi bức tranh văn hóa Thái truyền thống của tỉnh Sơn La trong mấy thập kỷ qua. Tuy nhiên, bất chấp những đổi thay của không gian sinh tồn và tác động ngoại cảnh, có một thực tế được thể hiện khá rõ trong văn hóa các cộng đồng Thái Sơn La, đó là xu hướng bảo lưu văn hóa truyền thống. Có thể quan sát xu thế này trong các động thái văn hóa và lối sống của người Thái ở cả khu tái định cư, khu đô thị hóa. Những biểu hiện của xu thế này đặc biệt được thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực văn hóa tâm linh, đời sống tinh thấn và phần nào đó, trong cả sinh hoạt vật chất ngay cả khi môi trường sống của họ đã thay đổi.
Trước hết, người Thái ở Sơn La vốn là một cộng đồng cư dân có truyền thống làm ruộng, dệt vải, nhuộm chàm, ở nhà sàn, sử dụng sức nước để giã gạo, rèn đúc công cụ sản xuất, v.v... Cho đến nay, dù sinh sống trong một địa bàn cộng cư đa sắc tộc nhưng ở Sơn La, người Thái vẫn giữ tập tục kết hôn trong nôi bộ tộc người. Đặc biệt, hiếm gặp những cặp vợ chồng người Thái kết hôn với người Hmông, Khơ-mú hay các nhóm dân tộc ít người khác. Tục lên nhà mới (Khửn hươn mớ), mừng lúa mới (Kin khẩu mớ), mừng năm mới (Chôm pi mớ) vẫn đang được thực hành dù xã hội đã trải qua nhiều đổi thay. Đề cao bản sắc văn hóa và lối sống của tộc người trong đó coi trọng Pi noọng căn và sẵn sàng giúp đỡ nhau là một truyền thống chưa bao giờ bị lãng quên. Chúng tôi cho rằng xu thế bảo lưu các yếu tố truyền thống trong văn hóa Thái có tác dụng như một sức đề kháng nội tại trước cơn bão văn hóa ập đến từ bên ngoài. Xu thế bảo lưu văn hóa truyền thống có thể quan sát được trong đời sống tâm linh của người Thái Sơn La, không kể đó là nhóm Tay Đăm hay Tay Đón/Khao. Khảo sát của chúng tôi trong các cộng đồng Thái tái định cư và đô thị hóa ở Sơn La cho thấy thế giới tâm linh của người Thái dường như có tính bền vững cao. Cũng giống như các dân tộc khác, người Thái thường tìm cách lí giải về thế giới tự nhiên mà họ đang sống, những hiện tượng khách quan của trời đất và giải thích nó theo lối tư duy của riêng mình. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn, có suy nghĩ và có mối liên hệ đến cuộc sống con người. Về cơ bản, niềm tin này vẫn đang được duy trì trong đời sống mặc dù nó dường như đã không còn là nhân sinh quan chi phối cuộc sống con người, mà chỉ được xem như một hành vi đạo đức nhằm bảo lưu bản sắc văn hoá của tộc người, giữ lại cho thế hệ mai sau cái truyền thống đã có từ hàng ngàn năm qua. Niềm tin vào sự tồn tại của một vũ trụ có ba tầng thế giới, Mương Phạ, một thế giới hỗn độn của những người khổng lồ; Mường Then nơi cư trú của Phi Then và Mường Bôn, nơi trú ngụ của các linh hồn tổ tiên vẫn đang ngự trị trong quan niệm của người Thái. Có thể nói người Thái Sơn La vẫn còn bảo lưu được khá vẹn nguyên một vũ trụ luận nguyên sơ về thế giới và niềm tin tôn giáo bản địa. Đây là một đặc điểm khác biệt căn bản so với các nhóm Thái khác ở Vân Nam (Trung Quốc), Lào hay Thái Lan, nơi mà tuyệt đại bộ phận các nhóm Thái đã chuyển sang thờ Phật (phái Nam Tông), và nhân sinh quan Phật giáo đã chi phối tư duy và lối sống của họ.
Người Thái Sơn La, dù trong hoàn cảnh nào, vẫn duy trì tập quán thờ cúng tổ tiên. Không kể những bản làng định cư lâu đời, hầu hết các gia đình người Thái ở khu tái định cư và đô thị hóa cũng đều có bàn thờ tổ tiên. Nơi thờ tổ tiên thường được xem là không gian linh thiêng nhất trong ngôi nhà Thái. Tính thiêng của không gian thờ cúng tổ tiên được xác lập bởi những nguyên tắc bất di bất dịch mà mọi thành viên trong gia đình đều phải tuân theo. Trong kiến trúc của ngôi nhà người Thái Sơn La có một gian gọi là hoóng, đây chính là gian thờ tổ tiên. Gian thờ này khá nhỏ nhưng độc lập, nằm về phía bên phải của ngôi nhà và sát cạnh gian ngủ của chủ nhà. Bên trong gian hoóng có một bàn thờ khá cao, bên trên có đặt bát hương, hai bên của bàn thờ có treo Tạy Ho/Khen tạy. Đây chính là những vật tượng trưng cho số thành viên nam trong gia đình. Gia đình nào có nhiều con trai thì sẽ có nhiều chiếc thông tạy đặt bên trong gian thờ.
Việc thờ cúng ma nhà trong các gia đình người Thái là nhằm cầu mong tổ tiên phù hộ có nhiều gia súc, được mùa và sức khỏe cho con cháu và bản mường. Nghi lễ cúng tổ tiên dịp đầu năm và rằm tháng Bảy (síp sí), nhất là ở ngành Thái Trắng vẫn được duy trì và có xu hướng tăng cường. Đối với người Thái Trắng, lễ síp sí còn quan trọng hơn các ngày lễ khác, thậm chí là quan trọng hơn cả Tết Nguyên đán. Trong tâm thức người Thái Trắng, thì đây là hai dịp lễ quan trọng nhất để họ báo ơn tổ tiên, cũng là dịp anh em quây quần tiếp tục xây dựng truyền thống gia đình.
Như đã nói ở trên, nhà ở của người Thái Sơn La, dù được xây dựng bằng vật liệu nào, trong không gian đô thị hay vùng tái định cư, vẫn cố gắng duy trì không gian thiêng trong đó hoóng là gian thờ chính thờ tổ tiên; còn một số gia đình còn có một góc phụ dùng để treo hỉnh một (liếp thờ ma tổ sư nghề-mo một). Các nghi lễ thờ cúng tổ tiên được thực hành thường xuyên cho thấy cấu trúc gia đình Thái không chỉ gồm những thành viên đang sống mà cả những người đã chết. Khi xây dựng một ngôi nhà, bao giờ không gian thiêng dành cho tổ tiên và linh hồn cũng được tạo lập như một nguyên tắc kiến trúc không thay đổi của họ.
Cơ cấu xã hội cổ truyền của người Thái dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng cha, do đó chỉ những người cùng họ nội mới được thờ phụng trong gia đình. Bố mẹ vợ, anh em vợ là những người không cùng họ cùng ma nên không thể đưa linh hồn họ vào thờ trên bàn thờ của gia đình. Tuy nhiên, đàn ông Thái cho rằng “mình thờ cúng cha mẹ mình thì cũng phải thờ cúng cha mẹ vợ”, vậy nên hầu như trong tất cả các gia đình đều có làm nhà hươn nọi, tức là nhà thờ bố mẹ vợ. Người ta làm một cái nhà sàn nhỏ, cao khoảng hơn một mét, khá vững chắc trên một khoảng đất sạch sẽ trong vườn nhà, bên ngoài có trang trí cờ phướn, gọi là hươn nọi. Linh hồn bố mẹ vợ đã quá cố sẽ được rước về đây để con cháu thờ cúng. Theo truyền thống, người phụ nữ Thái cúng cha mẹ ở hươn nọi vào ngày dệt hoóng, ngày lễ tết và lúc ốm đau để cầu mong có được sự phù hộ của cha mẹ. Vào tất cả các ngày mà gia đình làm lễ cúng gia tiên thì cũng phải mang đồ ra cúng ngoài nhà hươn nọi. Ở một số địa bàn trong tỉnh Sơn La, chúng tôi cũng nhận thấy lễ kin hươn nọi đã bắt đầu có những khác biệt. Do không gian sống thay đổi, nhiều nơi người ta không còn làm một nhà thờ chắc chắn cố định nữa mà chỉ dựng tạm một cái nhà nhỏ, hoặc quây vải lại thành một bàn thờ nhỏ và khi cúng xong thì dỡ đi luôn. Mặc dù vậy, đạo lý uống nước nhớ nguồn và tôn trọng những linh hồn đã khuất của hai bên gia đình là một truyền thống tốt đẹp vẫn đang được người Thái giữ gìn.
Ở một số địa bàn tái định cư hay ở các phường đô thị hóa của thành phố Sơn La, nơi không còn rừng, thậm chí không còn tổ chức bản cổ truyền, người Thái vẫn duy trì tục thờ ma bản mặc dù địa bàn sinh sống của họ đã đô thị hóa. Các cộng đồng Thái thường thờ một cái cây lớn, coi đó là cái cây thiêng, được trông coi rất cẩn thận, không ai được làm những việc xúc phạm đến thần cây thiêng này. Trong đời sống hàng ngày, nhiều câu truyện truyền miệng về sự trừng phạt của thần linh đối với những kẻ xúc phạm đến cây thần vẫn đang được kể như một cách răn đe những ý định xâm phạm đến chốn linh thiêng của cộng đồng.
Ở nhiều bản Thái, thầy mo vẫn được coi như người nhà trời cử xuống trần gian để cứu giúp con người khỏi bị ốm đau, bệnh tật, vì thế mà ông ta có khả năng giao tiếp với thần linh. Thầy mo không chỉ biết làm lí, giải trừ con ma, không cho nó quấy nhiễu mọi người mà còn biết làm lễ gọi hồn để người ốm trở về cuộc sống bình thường khoẻ mạnh. Đối với những người đã chết thì thầy mo làm lễ đưa hồn về với tổ tiên. Nếu không làm lễ này thì hồn người đó không thể về Mường Phạ, Mường Then được. Có thể nhận thấy Kin pang là nghi lễ mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, có ý nghĩa cộng đồng, vun đắp tình đoàn kết trong bản mường, đồng thời giáo dục con người ghi nhớ đạo lí “uống nước nhớ nguồn” theo tinh thần tương thân, tương ái“...Được ăn ngon đừng quên mình, được đi ngựa đừng quên thời đi bộ...”. Có thể nói duy trì và lưu giữ truyền thống văn hóa phi vật thể chính là giữ lại cái hồn cốt và những giá trị đạo đức lâu đời của cộng đồng tộc người. Dường như đây là một phản ứng tự nhiên của một nền văn hóa có đủ tự tin trước những thay đổi đã và đang tràn vào cộng đồng. Điều này cũng lý giải tại sao các tôn giáo như Công giáo và Tin Lành đang công phá mạnh mẽ nhiều cộng đồng dân tộc miền núi trong khu vực, nhưng khó lòng lách được vào các làng bản Thái định cư bền vững ở Sơn La.
Cập nhập bởi http://vips.com.vn
Bài viết liên quan
- KẾT LUẬN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO VỆ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- Khả năng ứng dụng trong thực tế của đề án bảo tồn Văn hóa dân tộc Thái - (21/12/2017)
- Những khó khăn khi thực hiện đề án - (17/12/2017)
- HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TẾ - (17/12/2017)
- TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (16/12/2017)
- Nhóm các giải pháp về triển khai một số hoạt động nghiên cứu khoa học và các đề án, dự án bảo tồn văn hóa dân tộc - (14/12/2017)
- Nhóm giải pháp về nguồn lực cho Bảo tồn văn hóa dân tộc Thái - (11/12/2017)
- Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách cho bảo tồn VH dân tộc Thái - (10/12/2017)
- GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở SƠN LA - (04/12/2017)