Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới
- Hotline tại Hà Nội
093.4619.456
- Hotline tại TP.HCM
090.188.4848
- Hotline tại Quảng Ninh
0988980308
Xu hướng phai nhạt bản sắc văn hóa truyền thống
Xu hướng phai nhạt bản sắc văn hóa truyền thống
Đối với các nhóm cư dân miền núi như người Thái ở Sơn La, rừng không chỉ là nguồn tài nguyên mang lại sinh kế cho họ. Rừng còn là cội nguồn nuôi dưỡng mạch ngầm văn hóa chảy trong mỗi cộng đồng. Một người làm công tác bảo tồn văn hóa dân tộc Thái lâu năm ở Sơn La đã nói: Với người Thái, rừng là rừng thiêng. Rừng trong tâm thức của họ cũng như trái tim của cộng đồng, thể hiện những qui ước, luật tục và những giá trị văn hóa truyền thống được tôn thờ, sùng kính”. Mất rừng đồng nghĩa với việc mất bản sắc văn hóa truyền thống. Tiếc thay, đó lại là xu thế phổ biến đang diễn ra tại Sơn La hiện nay. Theo tài liệu thống kê thì Sơn La là địa bàn đã mất nhiều rừng nhất trong các giai đoạn phát triển kinh tế của địa phương. Cho đến 2008, cả tỉnh Sơn La chỉ còn hơn 11% rừng tự nhiên. Nhiều khu rừng quốc gia ở Mường Giàng, Quỳnh Nhai đã biến mất. Cũng như rừng, văn hóa Thái Sơn La đang phải đối diện với xu hướng phai nhạt trên một bình diện rộng, trong đó sự biến mất của hệ sinh thái tự nhiên và thay đổi lối sống có vai trò như những tác nhân quan trọng.
Trước hết, ở những vùng đô thị hóa, khu vực tái định cư, và cả ở những bản tụ cư cổ truyền, ngôi nhà sàn Thái đang có nguy cơ thưa thớt dần và ở nhiều nơi đang dần mất đi. Một nguyên nhân quan trọng là do nguồn nguyên liệu làm nhà sàn truyền thống như gỗ và tranh lợp mái đang trở nên hiếm hoi hơn bao giờ hết do nguồn tài nguyên này đã bị cạn kiệt. Trong khi đó, những nguyên vật liệu làm nhà kiểu mới bền vững hơn đang được chào bán trên thị trường có mặt ở mọi nơi làm cho xu thế chuyển từ nhà sàn xuống nhà đất đang trở nên phổ biến.
Mặc dù tỉnh Sơn La chưa tổ chức khảo sát và phân tích tổng quan về tình trạng mất dần các ngôi nhà sàn tự phát nhưng ước tính của những người quan tâm đến vấn đề này cho biết vào những thập kỷ 1960 – 1970, hầu hết các gia đình Thái đều sinh sống trên những ngôi nhà sàn. Sang đến thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, người ta thấy tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở tăng lên song nhà sàn chỉ còn khoảng một nửa ở các địa bàn có người Thái cư trú mặc dù ở tầm nhìn cục bộ thì tại một số nơi, nhà sàn vẫn đang còn là một hình mẫu kiến trúc được ưa thích.
Sự biến đổi của ngôi nhà sàn Thái không phải là một vấn đề lớn nếu nhìn từ góc độ kiến trúc nhà ở đơn thuần. Tuy nhiên từ góc nhìn văn hóa, kiến trúc dân gian, nghi lễ, đời sống tâm linh và các sinh hoạt văn hóa tinh thần và vật chất gắn với ngôi nhà thì sự thưa vắng dần của các ngôi nhà sàn Thái là một mất mát không gì bù đắp nổi. Sự thưa vắng của nhà sàn Thái trong không gian văn hóa Thái Sơn La là sự mất đi của một kiểu kiến trúc có giá trị lịch sử, sự mất đi của một không gian văn hoá thiêng liêng, chứa đựng trong lòng nó một lối sống giầu nhân bản và đạo lý truyền thống. Mất nhà sàn cũng là sự đánh mất một phần lịch sử, một phần cái riêng của bản sắc văn hoá Thái bởi vì ngôi nhà sàn bình dị ấy là nơi hội tụ những giá trị văn hóa vật chất và tình thần của tộc người. Đối với một gia đình, căn nhà sàn là nơi chứng kiến buồn vui của những con người thân yêu đã sinh ra và mất đi. Quanh bếp lửa hồng trên sàn nhà, những người thân thường quây quần bên nhau nghe người già hát, ngâm và kể "khắp"; nhắc những điều răn dạy về đạo lý làm người cho con cháu "quám son cốn"; kể chuyện về lịch sử bản mường "Quám tố mướng”, về những bước đường chinh chiến của cha ông "Táy púk sấc", tiễn dặn người yêu - "Xống chụ xon xao". Đây cũng là nơi ra đời và lưu giữ các điệu "xoè" ngày mừng cơm mới, lên nhà mới, hội xuân và lễ cưới của những đôi trẻ. Nhà sàn cũng là nơi con trai đan lát, thổi khèn, pí, con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa, v.v.. Khuôn mẫu văn hóa và lối sống Thái như tước kia "trai biết đan chài, gái biết dệt vải” (nhinh hụ tháp phải/ chái hụ xan he) thường lấy ngôi nhà sàn làm trung tâm dần dần không còn nhìn thấy.
Bên cạnh ngôi nhà sàn truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa Thái có nguy cơ mai một, thì sự biến mất của thiết chế xã hội truyền thống người Thái và mối quan hệ của nó với các khía cạnh văn hóa – xã hội khác là một vấn đề còn chưa được tìm hiểu thấu đáo. Trong lịch sử, tổ chức xã hội của người Thái đã đạt đến mức hoàn thiện với cấu trúc bản – mường như là những đơn vị cư trú và quản lý cộng đồng và luật tục có vai trò điều phối mọi quan hệ xã hội, ứng xử, và quyền sở hữu của cá nhân và cộng đồng. Sau nhiều thập kỷ phát triển, luật tục có xu hướng phai nhạt do không còn được hậu thuẫn bởi tổ chức bản mường truyền thống. Chế độ sở hữu công cộng về nguồn tài nguyên đất rừng làm cơ sở cho sự tồn tại của đơn vị quản lý xã hội cấp bản cũng đã thay đổi. Đặc biệt, do thiết chế xã hội bản mường không còn có vai trò trong hệ thống chính trị - xã hội mới, vai trò quản lý cộng đồng của các già làng, trưởng bản, đặc biệt là của tầng lớp tinh hoa trong cộng đồng (thầy mo, thầy thuốc, nghệ nhân) đã phai nhạt dần. Thậm chí các thầy mo đã từng có lúc bị xem là đối tượng cần phải được quản lý và hạn chế hoạt động.
Chúng tôi cho rằng thiết chế bản mường Thái không chỉ đơn giản là cái khung tổ chức xã hội. Hơn thế, cả một hệ thống tôn ty trật tự và mối quan hệ của cộng đồng với thế giới tâm linh và hệ sinh thái được thiết lập qua hệ thống bản mường. Việc áp đặt lên đó một cái khung tổ chức xã hội khác theo kiểu phổ thông hóa, theo chế độ thôn và trưởng thôn, với hệ thống chính trị chủ đạo theo hình thức phổ thông hóa dường như đã chính thức loại bỏ mô hình tổ chức xã hội truyền thống ra khỏi đời sống. Cùng với việc thiết chế xã hội mất vai trò, luật tục Thái, một hệ thống các giá trị và quan niệm về đạo đức, lối sống và quản lý xã hội cũng bị mất đi vai trò của nó trong xã hội hôm nay. Có thể thế hệ trẻ Thái mai sau sẽ không còn hiểu được những quy định của một thể chế xã hội đã định hình và phát triển ở trình độ cao như thế nào trong các bản – mường Thái cổ truyền.
Một vấn đề đáng lưu ý là tình trạng mai một kiến thức bản địa trong lớp trẻ người Thái Sơn La hôm nay. Không kể số thanh niên lớn lên trong môi trường đô thị hóa gần đây, nhiều thanh niên Thái lớn lên ở bản cũng không còn nắm được cách nhận biết thế giới tự nhiên và môi trường sống xung quanh, kiến thức về hệ thống nông nghiệp quan trọng bậc nhất của một xã hội và phương thức sản xuất được tổ chức trên cơ sở khai thác sức nước “mương – phai – lái – lín”.
Phát triển du lịch, đặc biệt hình thức du lịch cộng đồng như được xây dựng ở bản Lác, Mai Châu, Hòa Bình đang được một số bản Thái Sơn La học tập và làm theo. Việc tổ chức các đội văn nghệ thôn bản phục vụ du lịch, lấy không gian nhà sàn Thái làm nơi ăn nghỉ cho du khách, khai thác văn hóa ẩm thực truyền thống và các hình thức lễ hội địa phương như một phương cách thu hút khách cũng được Sơn La đưa vào vận hành. Tuy nhiên, chưa có một phân tích nào đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi trường của loại hình du lịch này. Có thể nhận thấy du lịch cộng đồng mang lại một nguồn thu nhập bổ xung cho kinh tế địa phương, góp phần thúc đẩy sản xuất vật phẩm văn hóa phục vụ du lịch như nghề dệt và thủ công mỹ nghệ, nhưng những hệ lụy xã hội môi trường khác nhu dư nhập cái mới vào trong văn hóa của cộng đồng và khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên địa phương cũng cần được cảnh báo.
Văn hóa Thái Sơn La là một tổng thể được cấu trúc tương đối hoàn chỉnh, bao gồm thiết chế xã hội bản mường, luật tục quản lý xã hội, hệ thống các giá trị đạo đức và ràng buộc thông qua tổ chức dòng họ, gia đình và mối quan hệ dân sự được truyền thống ghi nhận. Bên cạnh đó, chữ viết như một chỉ dấu của xã hội văn minh, và cả một kho tàng tri thức văn nghệ dân gian vô cùng phong phú liên quan đến lịch sử tộc người, và chứa đựng ở trong đó quan niệm và niềm tin của nhiều thế hệ đã tạo dựng nên nền văn hóa Thái hôm nay. Đó là các trường ca lịch sử, các hình thức biểu diễn đặc trưng như xòe, khắp, đàn tính, hát giao duyên, và các hình thức trò chơi dân gian, đồng dao, v.v… Các cuộc phỏng vấn nhanh với các nhóm cư dân Thái thuộc nhiều thế hệ ở các địa bàn và môi trường sinh sống khác nhau cho thấy các thành tố văn hóa truyền thống này đều đang ở ngưỡng cửa của tình trạng mất đi vĩnh viễn hay tự ngoi ngóp bám víu vào trong cuộc cộng đồng để chờ một cơ chế và chính sách thích hợp về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Nhiều trí thức Thái quê Sơn La cho biết họ rất băn khoăn về di sản chữ viết của dân tộc mình. Dưới thời thực dân, chữ Thái được đưa vào trường học, mỗi tuần hai tiết. Từ sau 1967 việc dạy chữ Thái bị ngưng lại mà không rõ lý do. Ông nói: “Từ năm1967 đến nay, người dân tộc Thái chỉ biết nói tiếng Thái mà không biết viết chữ Thái. Nếu tiếng Thái không được dịch, không được truyền lại cho các thế hệ sau thì tôi sợ rằng chẳng bao lâu nữa chữ Thái sẽ hoàn toàn biến mất, những nét văn hóa trong các văn bản viết sẽ thất truyền”.
Bên cạnh chữ viết, người Thái là một cư dân đã sáng tạo ra được cách tính lịch riêng, có thể áp dụng trong nông nghiệp và mọi mặt đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc khôi phục lịch Thái để đưa trở lại vào hệ thống nông lịch và lễ tiết của tộc người, dù đã có một vài nỗ lực cá nhân, nhưng dường như vẫn chỉ là những cố gắng trong vô vọng. Còn thiếu một cái gì đó để làm cho lịch Thái phát huy được vai trò của nó như một di sản sống trong văn hóa tộc người.
Văn học dân gian Thái là một kho tàng tri thức khổng lồ mà bản thân các tác phẩm ấy tự nó đã tạo thành một di sản phi vật thể vô cùng quý giá trong kho tàng văn học dân gian của nhân loại. Tuy nhiên, từ trước đến nay, người ta chỉ chú trọng khai thác nguồn di sản văn hóa này bằng cách sưu tầm, phiên âm và dịch nghĩa sang tiếng phổ thông để in ấn và phổ biến. Các tác phẩm Táy pú xấc, Kén kẻo, Chương Han, Xống chụ xon sao, Khun Lú Náng Ủa, v.v. đều được làm theo cách như vậy. Thực ra, cách tiếp cận này chỉ có tác dụng giới thiệu văn hóa dân gian Thái ra ngoài cộng đồng mà không làm cho nó được phổ biến rộng rãi và sống được trong lòng dân tộc đã sản sinh ra các kiệt tác ấy. Thanh niên Thái ngày nay không còn mấy người thuộc và sử dụng các tác phẩm văn học dân gian vĩ đại của dân tộc như một nguồn cảm hứng của đời sống tinh thần, của giá trị đạo đức và lối sống để từ đó truyền dạy cho thế hệ tiếp nối như cha ông họ từng làm.
Ngoài văn học dân gian, người Thái Sơn La đã sáng tạo ra những nhạc cụ dân gian và nhiều điệu nhạc hết sức phong phú. Nếu như trong chúng ta, ai đó đã một lần đến thăm Sipsong Ban na của người Thái Vân Nam Trung Quốc, đều không thể quên giai điệu mượt mà tình cảm của tiếng sáo. Cây sáo Pi của người Thái Sơn La xứng đáng được vinh danh và lưu truyền để sánh ngang tiếng sáo dìu dặt ở Sip song Ban na, nhưng giờ đây ít người còn được nghe tiếng Pí ở vùng Thái Sơn La. Cây Pí hay còn được biết đến là cây sáo dọc, thuộc bộ hơi trong dàn nhạc cụ dân tộc là một nhạc cụ dân dã nhưng có sức truyền cảm sâu lắng như chính tâm hồn người Thái vậy. Tiếng Pí thường được cất lên ở các sự kiện đáng nhớ của cộng đồng như ngày hội, ngày cưới, ngay cả khi làm ma người ta cũng thổi Pí. Cây sáo Pí cũng từng là vật dụng bất ly thân của nhiều chàng trai Thái trong quá khứ. Nó giúp họ cất lên tiếng lòng với đủ mọi cung bậc vui, buồn. Thế nhưng những người biết thổi Pí trong số đàn ông Thái Sơn La ngày nay đang trở nên hiếm hoi. Ông Cầm Văn Dưn, 68 tuổi, ở phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La là một trong số người hiếm hoi đến nay còn biết thổi các loại Pí của người dân tộc Thái. Theo ông, ngày trước đàn ông Thái biết thổi Pí nhiều như lá cây trên rừng, nhưng cuộc sống phát triển với những phương tiện hiện đại có thể thưởng thức nhiều thứ âm nhạc, người ta dần quên đi tiếng Pí. Cây Pí bị xếp vào góc nhà, xó bếp. Người Thái bao đời nay gắn bó với tiếng Pí, mất đi tiếng Pí, người Thái dần dần sẽ quên nguồn cội.
Trong kho tàng văn nghệ dân gian Thái, nhảy sạp và xòe Thái là những hình thức diễn xướng dân gian đặc sắc trên thế giới, đáng được xếp vào hàng những kiệt tác diễn xướng dân gian của nhân loại. Đã từng có thời người ta tin rằng xòe Thái là một thú vui thưởng lãm chỉ phổ biến ở tầng lớp quý tộc Thái. Đó là một cách nghĩ sai lầm, và hậu quả là người ta ngại nói đến xòe Thái. May mắn là trào lưu văn nghệ bản phát triển rầm rộ ở Sơn La mấy năm trở lại đây đã góp phần làm hồi sinh các hình thức diễn xướng dân gian Thái ở Sơn La. Tuy nhiên, cho đến nay còn quá ít những nghiên cứu, sưu tầm và làm sống lại các hình thức văn nghệ dân gian đặc sắc này. Chính những người phụ nữ Thái chân chất, sau nhiều giờ lao động nặng nhọc hàng ngày, lại tụ họp nhau lại, miệt mài học múa, học hát. Các điệu múa nón, khăn piêu, xoè, ong eo, hát giao duyên, v.v. được họ bảo lưu và truyền dạy cho thế hệ sau. Tuy nhiên, phát huy di sản văn hóa và biến các hình thức diễn xướng này thành nguồn lực cho phát triển thì chưa hẳn đã là một bài học thành công. Từ Bản Hìn, nơi được Trung tâm Văn hóa tỉnh Sơn La chọn làm hình mẫu thí điểm của văn nghệ bản “để cất tiếng gáy đầu tiên” tạo ra phản hồi kiểu đô-mi-nô với hy vọng sẽ tạo nên hàng ngàn đội văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh. Đội văn nghệ bản Lầu, bản Chậu, bản Tông, bản Bó, rồi hàng chục đội văn nghệ quanh khu vực TP Sơn La đã có sức lan tỏa ra hàng trăm đội ở các huyện. Lời ca tiếng hát, điệu múa của văn nghệ bản ở Sơn La gần gũi với đời sống, mộc mạc, mang đậm bản sắc dân tộc đã gây dấu ấn sâu đậm trong lòng du khách mỗi khi đến thăm bản của họ. Nhưng điều băn khoăn nhất là nguồn lực cho văn nghệ bản còn quá nghèo nàn, trong khi việc dàn dựng các tiết mục với sự can thiệp thô bạo của người dựng chương trình làm cho cái hồn cốt của các điệu múa, lời hát trở nên khô cứng và mất đi vẻ đẹp thuần khiết trong truyền thống văn hóa của dân tộc.
Cuối cùng, không thể không nói đến sự mai một của lễ hội truyền thống dân tộc Thái Sơn La. Những lệ hội lớn trong vùng như xên bản, hạn khuống, hết chá, mừng cơm mới, v.v., dù vẫn được duy trì ở một mức độ nào đó trong cộng đồng, nhưng dường như đã mất đi cái hồn thiêng liêng, cái cốt cách làm nên tính hấp dẫn của lễ hội Thái. Xên lẩu nó chẳng hạn, là một lễ hội truyền thống độc đáo của người Thái Sơn La, được tổ chức để cảm tạ tổ tiên, thần sông, thần núi và là dịp để tạ ơn công đức của thầy cúng (Ông Một) đã chữa bệnh cho mọi người. Những người được chữa khỏi bệnh, được coi là con nuôi của Ông Một. Đây cũng là ngày hội của cộng đồng, là nơi để mọi người gặp gỡ, giao lưu, học hỏi lẫn nhau, nuôi dạy con cái và cùng hòa mình vào tiếng trống, tiếng chiêng, điệu xòe truyền thống. Đó là lối sống, là đạo lý và cốt cách của một dân tộc. Xem lễ hội xên lẩu nó hôm nay, ta thấy cái vẻ nhàn nhạt đàng sau hình thức khoa trương trong khi cái đạo lý hồn cốt của lễ hội giờ đây dường như đang phai nhạt. Người ta quan tâm nhiều hơn đến tính hình thức của lễ hội, xem nó như một cách thể hiện hơn là sâu lắng của đời sống tinh thần.
Nghiên cứu của chúng tôi ở khu tái định cư huyện Quỳnh Nhai cho thấy những trò chơi dân gian và các hình thức diễn xướng từng làm nao lòng bao người thưởng thức hay tham gia vào các lễ hội Thái giờ đây có xu hướng mai một rõ nét sau khi chuyển đến khu tái định cư. Có vẻ như cú sốc kinh tế - xã hội sau tái định cư làm cho các cộng đồng tái lập ở khu định cư với những xáo trộn đáng kể về lối sống đã là thay đổi cả niềm tin tâm linh, tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật dân gian. Nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật không còn được tổ chức, hoặc nếu đươc diễn ra thì cũng đã phai nhạt bản sắc do môi trường thay đổi, và đối tượng tham gia diễn xướng hoặc có hiểu biết về nghệ thuật dân gian của dân tộc ngày càng ít đi. Giới trẻ giờ đây không còn say mê với các làn điệu dân ca, dân vũ, những điệu hát đối giao duyên. Họ có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện truyền thông hiện đại và những yếu tố văn hóa mới đã dần ăn sâu vào tiềm thức. Nên những trò chơi, những bài hát, điệu múa dân gian không còn được ưa chuộng nữa. Và việc không thực hành các hoạt động văn hóa là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống bởi văn hóa được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu thông qua việc thực hành văn hóa.
Cập nhập bởi http://vips.com.vn
Bài viết liên quan
- KẾT LUẬN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO VỆ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- Khả năng ứng dụng trong thực tế của đề án bảo tồn Văn hóa dân tộc Thái - (21/12/2017)
- Những khó khăn khi thực hiện đề án - (17/12/2017)
- HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TẾ - (17/12/2017)
- TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (16/12/2017)
- Nhóm các giải pháp về triển khai một số hoạt động nghiên cứu khoa học và các đề án, dự án bảo tồn văn hóa dân tộc - (14/12/2017)
- Nhóm giải pháp về nguồn lực cho Bảo tồn văn hóa dân tộc Thái - (11/12/2017)
- Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách cho bảo tồn VH dân tộc Thái - (10/12/2017)
- GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở SƠN LA - (04/12/2017)