Danh mục sản phẩm
Sản phẩm mới
- Hotline tại Hà Nội
093.4619.456
- Hotline tại TP.HCM
090.188.4848
- Hotline tại Quảng Ninh
0988980308
Xu hướng tiếp biến và du nhập những yếu tố văn hóa mới
Xu hướng tiếp biến và du nhập những yếu tố văn hóa mới
Nếu như phục hồi và bảo tồn đời sống văn hóa tâm linh là một xu hướng có thể quan sát được trong hiện tình văn hóa Thái Sơn La thì ở lĩnh vực văn hóa vật chất, xu hướng phổ thông hóa lại đang hiển hiện và trở thành một xu thế phổ biến. Đặc điểm này cho thấy tăng cường tiếp xúc văn hóa là một xu thế tất yếu trong đó văn hóa vật chất là những yếu tố dễ được tiếp nhận do tác động từ bên ngoài và một phần nào đó, do hệ sinh thái và môi trường cư trú đang thay đổi.
Chúng tôi đã chỉ ra ở đầu chuyên luận này rằng sự thay đổi môi trường sống và đặc biệt là sự tăng cường tiếp xúc tộc người ở tỉnh Sơn La mấy thập kỷ qua là những tác nhân quan trọng làm thay đổi và du nhập những yếu tố mới vào đời sống văn hóa địa phương. Tình trạng mất rừng, đô thị hóa và tái định cư bắt buộc cũng có thể được xem là những yếu tố có tác động mạnh đến biến đổi lối sống và văn hóa của người Thái ở Sơn La. Chúng tôi sẽ cố gắng phân tích xu thế này thông qua các tư liệu điều tra thực tế từ những quan sát thực tế ở khu vực tái định cư và đô thị hóa huyện Quỳnh Nhai.
Khảo sát của chúng tôi cho thấy huyện Quỳnh Nhai có 9 khu và 11 điểm tái định cư lập địa điểm cư trú mới của người Thái và một bộ phận người Kinh. Tất cả đều đang trong giai đoạn hoàn thành kết cấu hạ tầng. Cuộc sống của đồng bào chuyển cư đã dần đi vào giai đoạn ổn định. Chúng tôi tập trung quan sát xem liệu quá trình chuyển cư tới địa bàn mới có làm thay đổi hệ thống sản xuất nông nghiệp, sinh kế và lối sống hay không và nếu có, quá trình đó đã diễn ra thế nào. Thông tin của địa phương cho biết vào tháng 7/2009, các hộ gia đình Thái ở xã Mường Chiên bắt đầu chuyển đến trung tâm huyện lỵ mới tại lòng chảo Phiêng Lanh, thuộc xã Mường Giàng, huyện Quỳnh Nhai.
Tại nơi định cư mới, cơ sở hạ tầng như hệ thống trường học các cấp, trung tâm huyện lỵ và một số đơn vị hành chính đang được hoàn thiện; chợ trung tâm cũng đang được xây dựng, bệnh viện và một số cơ sở khám chữa bệnh đã hoàn thiện, nhà cửa đang hoàn thiện theo hướng kiên cố, đường sá đang xây dựng và mở rộng thêm. Khu vực trung tâm của huyện cũ nằm trên vị trí ngõ cụt về giao thương đường bộ, do đó quan hệ giao lưu hàng hóa giữa Quỳnh Nhai với một số trung tâm lân cận khác gặp nhiều khó khăn trong khi chưa có đường giao thông sang Lai Châu, Lào Cai và một số tỉnh ở vùng Đông Bắc. Khi chuyển đến địa bàn cư trú mới, trung tâm huyện lỵ đặt tại thị trấn Phiêng Lanh. Địa bàn này nằm trên ngã tư đường thuận lợi cho việc đi lại và giao thương với huyện Thuận Châu, một số tỉnh ở vùng Đông Bắc (Lai Châu và Lào Cai).
Huyện lỵ Quỳnh Nhai mới là điểm giao lưu văn hóa, kinh tế, giao thương thuận lợi với các vùng lân cận. Từ Quỳnh Nhai theo đường 279 lên Sa Pa, Lào Cai. Trước đây, đời sống nhân dân chủ yếu là làm ruộng nước và có một bộ phận nhỏ làm nghề buôn bán. Khi chuyển ra trung tâm huyện lỵ mới, phương thức sinh sống tại huyện mới chủ yếu là buôn bán, chăn nuôi gia súc, gia cầm, bởi ở nơi ở mới đất canh tác hẹp, chỉ đủ trồng rau xanh, trang trại chăn nuôi gà, vịt. Người Thái ở bản Nghe Tỏng và Chẩu Quân đã biết trồng nấm và bán ra thị trường.
Bên cạnh thay đổi trong sinh kế, một số nét văn hóa truyền thống đang có nguy cơ mai một do môi trường sống thay đổi. Lễ hội gội đầu chẳng hạn, là một nét đẹp của truyền thống, khó có thể khôi phục được ở nơi tái định cư do điều kiện sông suối không còn như cũ. Hầu hết người Thái khi chuyển cư ra sinh sống ở vùng trung tâm huyện lỵ có xu hướng học hỏi và tiếp thu phong tục cưới xin của người Kinh trên địa bàn. Trước đây người Thái Quỳnh Nhai tổ chức cưới 3 lần, nay chỉ tổ chức 1 lần, qua các bước xem mặt, ăn hỏi, đi đăng ký và làm đám cưới, giống như ở người Kinh. Tục khơi quản (6 tháng) ở rể xem con rể có chịu khó, chịu khổ, chăm chỉ không hoặc xem có nghiện hút không giờ đã không còn nữa.
Đặc điểm cư trú xen cài Thái – Kinh ở nơi định cư mới đã tạo nên những nét hỗn dung văn hóa khá độc đáo, đặc biệt trong văn hóa ẩm thực, nhà ở và đồ gia dụng. Người Việt tiếp thu nhiều loại gia vị và cách chế biến món ăn kiểu Thái trong khi các dồ gia dụng kiểu phổ thông như bếp ga, nồi chảo đã tham gia vào đời sống của những căn bếp cổ truyền của người Thái. Các ngôi nhà sàn Thái truyền thống giờ đây cũng được bố trí lại theo kiểu nhà hình ống chật hẹp và khó xoay xở do không gian cư trú đã bị thu hẹp tối đa. .
Về mặt quan hệ họ hàng của người Thái ở các bản tái định cư Chẩu Quân và Nghe Tỏng, các hộ gia đình cùng dòng họ không còn quây quần bên nhau như cũ do họ phải bốc thăm để xác định chỗ dựng nhà ở. Nhiều trường hợp người dân phải tự đàm phán với nhau để được chuyển chỗ ở về gần những người trong họ hàng gia tộc.
Trong khu tái định cư hỗn hợp, người Việt nổi lên như một nhân tố có ảnh hưởng trong hoạt động kinh tế, nhưng họ nhận thấy lối sống ân cần quan tâm lẫn nhau của người Thái rất đáng học tập. Đặc biệt, trong gia đình Thái, người phụ nữ thường có vai trò quan trọng hơn trong gia đình, họ có quyền bình đẳng với chồng, là chủ hộ trong gia đình và giữ tay hòm chìa khóa. Lối sống bình đẳng vợ chồng trong quản lý gia đình của người Thái được xem như một bí quyết đảm bảo hạnh phúc bền lâu và có sức lan tỏa trong số các hộ gia đình người Việt cư trú trên địa bàn.
Người Thái là cư dân nông nghiệp ruộng nước, cuộc sống và văn hóa của họ gắn bó với những nguồn nước. Khi chuyển cư ra huyện lỵ mới, không có đất sản xuất, cũng không có nguồn nước nuôi thả cá. Chuyển đổi nghề nghiệp của người Thái ở khu tái định cư được đặt ra cấp bách. Mô hình du lịch cộng đồng như Bản Lác Mai Châu (Hòa Bình) và phát triển nghề làm thổ cẩm được cho là cứu cánh của sinh kế mới. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa truyền thống đang phai nhạt nhanh chóng làm cho sức hấp dẫn của du lịch tộc người trở nên khó khăn. Nghề dệt cổ truyền ở Chẩu Quân và Nghe Tỏng cũng đã mai một dần, rất khó khôi phục. Cần lưu ý rằng tiếp xúc tộc người ở khu vực tái định cư không chỉ làm cho người Thái tiếp nhận một số yếu tố văn hóa mới vào trong đời sống của mình, mà ngược lại, người Kinh cộng cư trên địa bàn cũng học hỏi và tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa Thái vào trong đời sống của họ.
Ở vùng tái định cư huyện Quỳnh Nhai có một nhóm người Việt quê gốc Nam Định lên xây dựng kinh tế mới trong vùng từ những năm 1960 - 1970. Một số người xuất thân từ thợ mộc thợ nề nay đã trở thành những chủ thầu xây dựng và lập ra các doanh nghiệp lớn trong vùng. Một số hộ gia đình khá giả người Việt ở đây thường tổ chức các tiệc cưới hay giỗ chạp mà trong đó các món ăn Thái như xủm lún, măng luộc, chẩm chéo, pho, nặm pịa, nếp nương, xôi mầu v.v. thường rất được ưa thích.
Các nghi lễ trong năm cũng có sự pha trộn Kinh – Thái. Chẳng hạn, một số hộ gia đình hỗn hợp Kinh – Thái thường tổ chức theo kiểu hỗn hợp hoặc theo nghi lễ của người Thái mà không theo nghi lễ ở quê gốc. Ngược lại, người Thái trước đây không dùng vàng mã trong các lễ tiết cúng bái thì giờ đây, vàng mã đã thấy xuất hiện trong các nghi lễ cúng tổ tiên và các ngày tuần rằm như kiểu người Kinh.
Người Kinh định cư ở Quỳnh Nhai có một bộ phận tham gia vào hoạt động giáo dục và lãnh đạo chính quyền địa phương. ở vị trí này, văn hóa và lối sống của họ dễ có ảnh hưởng đến cộng đồng Thái ở nơi hỗn cư. Ngoài ra, phải nhận thấy rằng cuộc sống tái định cư trong không gian đa văn hóa và bị tách khỏi cộng đồng gốc, cả hai nhóm Kinh và Thái dễ hòa đồng và tiếp thu văn hóa của nhau hơn là khi họ vẫn còn đang sinh sống trong cộng đồng gốc truyền thống.
Từ góc nhìn biến đổi và thích ứng văn hóa, có thể nhận thấy nhóm người Kinh thích ứng với cuộc sống nơi tái định cư nhanh hơn so với các bản người Thái. Ngoài bộ phận công chức, cán bộ, các nhóm người Việt buôn bán hoặc làm thợ thủ công cũng nhanh chóng ổn định cuộc sống dù họ tiếp tục làm công việc trước đây hoặc chuyển sang buôn bán một số mặt hàng mới khi có điều kiện thuận lợi hơn so với nơi ở cũ. Bộ phận người Thái ở Quỳnh Nhai cũ chuyển ra huyện mới gặp khó khăn hơn trong việc ổn định cuộc sống và tạo lập công việc trong tương lai. Đây cũng là một vấn đề đang đặt ra đối với khả năng tiếp biến văn hóa của các cộng đồng Thái vốn quen sinh sống trong môi trường cổ truyền có tính cộng đồng cao khi phải đương đầu với môi trường sống đã thay đổi. Trong các đợt nghiên cứu thực địa, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu nhận thức của người Thái địa phương về người Việt trong quá trình tái định cư. Trong con mắt của họ, người Việt thường khôn khéo và nhanh nhậy, không chỉ trong làm ăn mà ngay cả cách tiếp cận tiền đền bù tái định cư vì họ nắm được thông tin và biết cách tối đa hóa những cơ hội đền bù mà chương trình mang lại. Trong khi đó, người Thái vốn bản chất thật thà, không có thói quen gian dối nên thường cảm thấy mình bị thiệt thòi.
Trong điều kiện sống thành cộng đồng bền chặt, người Thái có xu hướng duy trì tập quán nội tộc hôn trong cộng đồng tộc người và ít khi kết hôn với các nhóm tộc người khác để tạo thành các gia đình hỗn hợp. Tuy nhiên, quan sát trường hợp cư trú hỗn hợp Kinh – Thái ở khu vực tái định cư Quỳnh Nhai, nhiều đàn ông người Kinh là con rể của các dòng họ lớn của người Thái địa phương. Các đám cưới hỗn hợp Kinh - Thái ở Quỳnh Nhai thường được tổ chức theo nghi lễ địa phương của người Thái mặc dù tục ở rể không thấy được vận dụng vào các cuộc hôn nhân kiểu này. Trong các gia đình Kinh – Thái, phong tục tập quán của người Thái dường như chiếm vị trí chủ đạo và nổi bật. Dường như mối quan hệ hôn nhân đa tộc người giúp cho nhiều cán bộ người Kinh có vợ Thái hiểu hơn những phong tục, tập quán, tâm tính của người Thái. Mối quan hệ này đã đưa các dòng họ người Thái và cộng đồng người Việt gần gũi và mật thiết, gắn bó hơn. Ngoài ra, cũng thấy có hiện tượng các nhóm người Kinh nhận người Thái là bạn đồng niên, kết bạn, nhận con nuôi, quan hệ láng giềng, anh em kết nghĩa với các các nhân và dòng họ lớn của người Thái. Chính quá trình sinh sống cộng cư của người Kinh với các nhóm Thái ở Quỳnh Nhai đã xóa đi rào cản văn hóa giữa hai tộc người. Các cô gái Thái giờ đây không ngần ngại có người yêu và lấy chồng người Kinh. Nhiều cán bộ người Kinh lên công tác ở đây sẵn sàng ở lại Tây Bắc để sống và lập nghiệp. Mối quan hệ gắn bó giữa người Kinh và người Thái càng trở nên khăng khít hơn. Khi đã đặt lòng tin, người Thái sẵn sàng giao tài sản nhờ giữ hộ hoặc bảo quản hộ. Người Kinh cũng sẵn sàng cởi mở, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm cho người Thái, tiếp thu tinh hoa văn hóa, nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả làm việc.
Trên thực tế, bộ phận người Kinh ở Quỳnh Nhai đã có những đóng góp trên nhiều phương diện vào sự phát triển của địa phương. Đội ngũ cán bộ người Việt nhanh chóng tiếp thu phong tục tập quán và văn hóa cổ truyền của các gia đình người Thái sở tại nên am hiểu lối sống giao tiếp của các tộc người. Lớp cán bộ người Kinh đầu tiên ở Quỳnh Nhai đã học được những khuôn mẫu ứng xử để làm việc giao tiếp có hiệu quả với người Thái bản địa như chân thành thật thà, tế nhị và đặc biệt không bao giờ được thất hứa với dân vì đối với người Thái, lòng tin quyết định các mối quan hệ xã hội. Một người phụ nữ Thái cao niên (sinh năm 1938) ở bản Chẩu Quân nhận xét rằng “người Kinh Quỳnh Nhai sống hiền lành. Sống ở đất người Thái nên họ có nhiều đức tính, phong tục tập quán giống như người Thái. Người Kinh lên sinh sống lâu dài ở Quỳnh Nhai, xây dựng mối quan hệ hòa hợp với người Thái, còn bộ phận người Kinh mới lên chủ yếu làm kinh tế là chính, họ có phần tính toán so đo, quan điểm sống khác với người Kinh Quỳnh Nhai”.
Như vậy, trong con mắt người Thái Quỳnh Nhai, có hai bộ phận người Kinh mà họ gọi là Kinh Quỳnh Nhai (định cư từ những năm 1960) và Kinh mới định cư gần đây, với lối sống, văn hóa ứng xử và tác động khác nhau lên cộng đồng Thái địa phương. Có thể nhận định rằng xu thế tăng cường tiếp biến văn hóa trên địa bàn tỉnh Sơn La làm xuất hiện nhiều yếu tố văn hóa mới thâm nhập vào trong cộng đồng dân tộc Thái, trong đó các nguyên nhân di cư, tái định cư, đô thị hóa và hiện đại hóa mà hệ quả của các quá trình này là làm hình thành một bộ phận cư dân Thái sống ở đô thị với nguồn sinh kế mới (phi nông nghiệp). Quá trình hội nhập quốc gia và quốc tế cũng như tác động của truyền thông, của hệ thống giáo dục, làm tăng tình trạng song ngữ và đa ngữ trong cộng đồng dân cư địa phương. Dường như ở vùng tái định cư, nơi cộng đồng tụ cư lâu đời đã bị phá vỡ thì văn hóa truyền thống của dân tộc Thái trở nên mong manh dễ vỡ hơn. Người Thái ở nơi đây dễ dàng tiếp thu vào trong lối sống của mình những yếu tố mới và từ bỏ thói quen và các thực hành văn hóa mà điều kiện sinh sống mới không còn đáp ứng được. Sức đề kháng và bảo lưu của văn hóa truyền thống có lẽ chỉ thực sự mạnh ở những cộng đồng tụ cư lâu đời và trở nên dễ vỡ hơn ở những địa bàn tái định cư.
Cập nhập bởi http://vips.com.vn
Bài viết liên quan
- KẾT LUẬN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO VỆ VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (21/12/2017)
- Khả năng ứng dụng trong thực tế của đề án bảo tồn Văn hóa dân tộc Thái - (21/12/2017)
- Những khó khăn khi thực hiện đề án - (17/12/2017)
- HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TẾ - (17/12/2017)
- TỔ CHỨC VÀ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN BẢO TỒN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI - (16/12/2017)
- Nhóm các giải pháp về triển khai một số hoạt động nghiên cứu khoa học và các đề án, dự án bảo tồn văn hóa dân tộc - (14/12/2017)
- Nhóm giải pháp về nguồn lực cho Bảo tồn văn hóa dân tộc Thái - (11/12/2017)
- Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách cho bảo tồn VH dân tộc Thái - (10/12/2017)
- GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI Ở SƠN LA - (04/12/2017)